Ốc bươu đồng là gì? Các công bố khoa học về Ốc bươu đồng

Ốc bươu đồng là một loại ốc sống ở vùng biển nhiệt đới châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Chúng thường có vỏ dày và nặng, có thể được sử dụng làm vật trang trí...

Ốc bươu đồng là một loại ốc sống ở vùng biển nhiệt đới châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Chúng thường có vỏ dày và nặng, có thể được sử dụng làm vật trang trí hoặc là thực phẩm trong một số nền văn hóa.
Ốc bươu đồng là một loài ốc biển lớn có thể đạt đến kích thước lên tới 30 cm. Chúng thường sống ẩn mình dưới cát hoặc trong đáy biển, và di chuyển chậm chạp bằng cách đẩy chân ra khỏi vỏ.

Ốc bươu đồng thường săn mồi nhờ vào cách hút nước và lọc thức ăn từ môi trường xung quanh. Chúng ăn tảo, vi sinh vật và các loài sinh vật nhỏ khác.

Ốc bươu đồng có giá trị thương mại cao do vỏ dày, có thể được sử dụng để làm trang sức và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, việc săn bắt và khai thác quá mức đã dẫn đến giảm số lượng của loài này, và ốc bươu đồng hiện đang có nguy cơ bị đe dọa.
Ngoài ra, ốc bươu đồng còn được sử dụng trong ẩm thực như một loại thực phẩm phổ biến trong một số nền văn hóa biển. Vị ngon của thịt ốc bươu đồng thường được mô tả là ngọt và thơm, và nó có thể được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau như xào, hấp, nướng, chiên, hay nấu súp.

Tuy nhiên, việc săn bắt ốc bươu đồng cần phải được quản lý cẩn thận để đảm bảo sự bền vững của nguồn lợi này. Các biện pháp bảo vệ và quản lý cần được áp dụng để đảm bảo rằng việc khai thác không ảnh hưởng quá mức đến số lượng của loài này trong tự nhiên.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ốc bươu đồng":

Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata) đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 42 - Trang 56-64 - 2016
Nghiên cứu này được thực hiện trong 60 ngày nhằm đánh giá ảnh hưởng của mật độ ốc bươu vàng (BV) đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (BĐ). Thí nghiệm được bố trí với 5 nghiệm thức là 1).100% BĐ, 2).75% BĐ:25% BV, 3).50% BĐ:50% BV, 4).25% BĐ:75% BV và 5).100% BV (về số lượng) với 3 lần lặp lại. Trọng lượng ban đầu của ốc khoảng 0,70 – 1,00 g/con, được nuôi chung trong bể với mật độ là 200 con/m2. Ốc được cho ăn rau diếp và thức ăn công nghiệp với tỷ lệ 1:1(tỷ lệ khô), lượng thức ăn hàng ngày tương đương 4% sinh khối ốc nuôi. Kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng của BĐ thấp hơn BV ở tất cả các nghiệm thức (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #Ốc bươu vàng #Pomacea canaliculata #sinh trưởng #tỷ lệ sống
ẢNH HƯỞNG CỦA RAU XANH VÀ THỨC ĂN CÔNG NGHIỆP ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA ỐC BƯƠU ĐỒNG GIỐNG (PILA POLITA) GIAI ĐOẠN GIỐNG
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - - 2013
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita) trong quá trình ương giống. Thí nghiệm gồm có 3 nghiệm thức thức ăn và được lặp lại 3 lần là: 1). Rau xanh; 2). Kết hợp thức ăn công nghiệp (TACN) với rau xanh; 3).  Chỉ cho ăn TACN. ốc giống mới nở (khối lượng và chiều cao ban đầu là 0,03 g và 4,14 mm) được ương trong bể nhựa với mật độ 150 con/bể. Sau 35 ngày ương, tỷ lệ sống khi cho ăn TACN (93,1%) cao hơn so với cho ăn kết hợp (91,0%) và rau xanh (89,8%), tuy nhiên không khác biệt (p>0,05). Khi cho ăn TACN, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc (0,83 g và 15,69 mm) cao hơn (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #thức ăn #sinh trưởng #tỷ lệ sống
Sử dụng kết hợp thức ăn xanh và thức ăn công nghiệp để nuôi ốc bươu đồng (Pila polita) trong giai lưới
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 50 - Trang 109-118 - 2017
Nghiên cứu được thực hiện trong 4 tháng nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc thay thế thức ăn xanh với tỷ lệ khác nhau lên tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống, năng suất và hiệu quả kinh tế của ốc bươu đồng (Pila polita) trong giai đoạn nuôi thịt. Thí nghiệm gồm có 5 nghiệm thức thức ăn và được lặp lại 3 lần là: (i) Thức ăn công nghiệp-100% (CN100); (ii) Thức ăn công nghiệp 75% kết hợp thức ăn xanh 25% (X25); (iii) Thức ăn công nghiệp 50% kết hợp thức ăn xanh 50% (X50); (iv) Thức ăn công nghiệp 25% kết hợp thức ăn xanh 75% (X75) và (v) Thức ăn xanh 100% (X100). Khối lượng, chiều cao và chiều rộng ban đầu của ốc giống là (1,32 g; 19,71 mm và 13,81 mm), ốc được nuôi trong giai với mật độ 150 con/m2. Sau 4 tháng nuôi, tỷ lệ sống của nghiệm thức X100 (71,9%) cao hơn so với X75 (71,1%), X50 (69,9%) và khác biệt (p
#Ốc bươu đồng #sinh trưởng #tỷ lệ sống #thức ăn xanh #thức ăn công nghiệp
Ảnh hưởng của các hàm lượng đạm khác nhau trong ương ốc bươu đồng (Pila polita) giống
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Tập 54 Số 3 - Trang 177-185 - 2018
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của các hàm lượng đạm khác nhau trong thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita) giai đoạn ương giống. Mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp lại với các mức hàm lượng đạm lần lượt là: 15 (P15); 20 (P20); 25 (P25); 30 (P30); 35 (P35) và 40% (P40). Ốc giống mới nở có chiều cao và khối lượng ban đầu là 4,88 mm và 0,03 g được ương trong bể composite (kích thước 80×60 cm, chiều cao cột nước 20 cm) với mật độ 150 con/bể. Sau 49 ngày ương, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc ương ở hàm lượng đạm P25 (1,17 g và 17,3 mm) cao hơn (p0,05). Ương ốc ở hàm lượng đạm P25 cho năng suất (349 g/m2) cao nhất và khác biệt (p
#Hàm lượng đạm #ốc bươu đồng #sinh trưởng #tỷ lệ sống
ĐẶC ĐIỂM VỊ TRÍ ĐẺ TRỨNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THỜI GIAN PHUN NƯỚC ĐẾN QUÁ TRÌNH NỞ TRỨNG ỐC BƯƠU ĐỒNG (PILA POLITA)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 35 - Trang 91-96 - 2014
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu sự phân bố của bọc trứng ốc bươu đồng (Pila polita) trong ao và ảnh hưởng của các thời gian phun nước lên tỷ lệ nở và thời gian nở. Có 4 chu kỳ phun nước khác nhau được áp dụng trong quá trình ấp trứng ốc bươu đồng là 1). 3 giờ; 2). 6 giờ; 3). 9 giờ; 4). 12 giờ. Bọc trứng ốc được đặt trên giá thể xơ dừa trong rổ nhựa, sau đó ấp trong 12 bể composite. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trứng ốc bươu đồng được đẻ sát bờ ao luôn ở mức cao (86,9%) so với những bọc trứng đẻ ở trên thân cây mọc quanh ao (13,1%). Tỷ lệ nở của trứng được phun nước sau mỗi 6h là (90,8%) cao hơn và khác biệt có ý nghĩa (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #phun nước #tỷ lệ nở #thời gian nở
Ảnh hưởng của giá thể đến kết quả nuôi ốc bươu đồng (Pila polita)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 41 - Trang 86-93 - 2015
Nghiên cứu này được thực hiện trong 2 tháng nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại giá thể đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của ốc bươu đồng (Pila polita) trong giai đoạn nuôi thịt. Thí nghiệm được bố trí với 3 loại giá thể khác nhau là: 1). Không có giá thể (ĐC); 2). Chùm nilon (NL) và 3). Cây lục bình (LB) với 3 lần lặp lại cho mỗi loại giá thể. Số lượng ốc được thả vào mỗi bể (250 L) là 100 con với khối lượng trung bình ban đầu từ 0,73 đến 0,75 g/con. Sau 60 ngày nuôi, tỷ lệ sống của ốc bươu đồng không khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05). Tuy nhiên giá trị trung bình về chiều cao (32,24 ± 3,90 mm), chiều rộng (23,78 ± 2,16 mm) và khối lượng (7,53 ± 0,23 g) của ốc nuôi với giá thể lục bình đều cao hơn các nghiệm thức khác (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #nuôi thương phẩm #giá thể
BIẾN ĐỘNG THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA THỊT ỐC BƯƠU ĐỒNG (Pila polita Deshayes, 1830): VARIATION OF PROXIMATE COMPOSITIONS IN TISSUES OF BLACK APPLE SNAIL (Pila polita Deshayes, 1830)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 4 Số 1 - Trang 1755-1765 - 2020
Ốc bươu đồng (Pila polita) là loài có giá trị kinh tế cao và phân bố ở Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt ở vùng nội đồng. Nghiên cứu thành phần hoá học của thịt ốc bươu đồng được thực hiện trên 721 mẫu (ốc cái: 332 mẫu; ốc đực: 389 mẫu)  thu từ tháng 11 năm 2016 đến tháng 10 năm 2017, ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả cho thấy, hàm lượng protein là thành phần chủ yếu trong thịt ốc bươu đồng (58,2 67,7%); trong đó, hàm lượng protein của ốc bươu đồng cái (52,8-67,3%) thấp hơn so với ốc bươu đồng đực (59,3- 69,5%). Hàm lượng chất béo trong thịt ốc bươu đồng có khuynh hướng tỉ lệ nghịch với hàm lượng chất protein, có xu hướng giảm thấp từ tháng 01 đến tháng 8 và cao từ tháng 9 đến tháng 12. Hàm lượng xơ và tro của ốc bươu đồng lần lượt 0,32-0,46% và 9,56-11,4%. Hàm lượng protein và chất béo trong thịt ốc vào mùa khô lần lượt là 61,4% và 2,52% thấp hơn (p<0,05) so với mùa mưa 65,2% và 3,00%. Trong khi đó, vào mùa mưa hàm lượng xơ và tro của ốc bươu đồng lần lượt là 0,42% và 11,9% cao hơn (p>0,05) so với mùa mưa 0,41% và 10,6%. Ốc bươu đồng ở nhóm kích thước lớn, hàm lượng protein cao hơn ở nhóm kích thước nhỏ. Từ khóa: Dinh dưỡng, Ốc bươu đồng, Pila polita, Thành phần hoá học ABSTRACT The black apple snail (Pila polita) is one of the species in Ampullariidae family with high commercial value, which is distributed in Mekong Delta, especially in the interior. A total number of 721 snails (332 females and 389 males) were collected from November 2016 to October 2017 in some provinces of Mekong River Delta, Vietnam for proximate composition analysis. The results showed that the protein content is the main component in black apple snail meat (58,2-67,7%), in which the female snail has lower protein content (52,8-67,3%) than  the male snail (59,3-69,5%). The fat content in black apple snail meat tends to be inversely proportional to the protein content, which was low from January to August and high from September to December. The fiber and ash content of the black apple snail was 0,32-0,46% and 9,56-11,4%, respectively. Seasonally, the protein and fat content of snail meat in the dry season are 61,4% and 2,52%, respectively, always lower (p<0,05) than in the rainy season (65,2% and 3,0%). Meanwhile, the fiber content and the ash content of snail in the rainy season were 0,42% and 11,9% higher (p>0,05) than the ones in the rainy season (0,41% and 10,6%). The research results also indicated that the black apple snail in the large size class had higher protein content than the one in the small size class. Keywords: Biochemical analysis, Black apple snail, Nutrition, Pila polita  
#Biochemical analysis #Black apple snail #Nutrition #Pila polita #Dinh dưỡng #Ốc bươu đồng #Thành phần hoá học
Ảnh hưởng của tỉ lệ cho ăn lên sự sinh trưởng và tỉ lệ sống của ốc bươu đồng (Pila polita) giai đoạn giống
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Tập 54 - Trang 65-71 - 2018
Các tỉ lệ cho ăn khác nhau đã được thử nghiệm để đánh giá tăng trưởng và tỉ lệ tăng sinh khối của ốc bươu đồng (Pila polita) trong quá trình ương giống. Thí nghiệm gồm có 4 tỉ lệ cho ăn khác nhau và được lặp lại 3 lần là: 1) Cho ăn với tỉ lệ 3% khối lượng ốc trong 5 tuần (F3-3), 2) Cho ăn 3% trong tuần đầu và 5% ở tuần thứ 2 đến thứ 5 (F3-5), 3) Cho ăn 3% trong tuần đầu, 5% tuần thứ 2 và 7% tuần thứ 3 trở đi (F3-7), 4) Cho ăn 3% tuần đầu, 5% tuần 2, 7% tuần 3, 10% từ tuần thứ tư trở đi (F3-10). Ốc bươu đồng với khối lượng 0,10 - 0,13 g và chiều cao vỏ từ 7,05 - 8,03 mm được ương trong bể PVC (40×80 cm), với mật độ 300 con/m2 và cho ăn thức ăn công nghiệp (18% đạm). Sau 5 tuần nuôi, tỉ lệ sống của ốc khi cho ăn với các tỉ lệ khác nhau không có sự khác biệt (p>0,05). Tuy nhiên, khi cho ăn ở nghiệm thức F3-10 (1,66 g và 20,2 mm) thì cao hơn so với các nghiệm thức khác (p
#Ốc bươu đồng #Pila polita #sinh khối #sinh trưởng #tỉ lệ cho ăn
Ảnh hưởng của các chế độ ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của ốc bươu đồng (Pila polita)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 38 - Trang 73-79 - 2015
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của ốc bươu đồng. Thí nghiệm 1 đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở của trứng ốc được tiến hành với 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức có 8 lần lặp lại là: 1) Ánh sáng tự nhiên (NL); 2)Che 1 lớp lưới lan (OL) và 3). Che 2 lớp lưới lan (TL). Trong thí nghiệm 2, ốc bươu đồng mới nở được ương ở các chế độ ánh sáng tương tự thí nghiệm 1. Ốc giống có khối lượng và chiều cao ban đầu (0,03 g và 4,80 mm) được ương với mật độ 300 con/m2. Kết quả thí nghiệm cho thấy, trứng ốc bươu đồng đạt tỷ lệ nở cao nhất (83,3%) ở nghiệm thức OL (tương đương với cường độ ánh sáng từ 1000 đến 9000 lux) và cao hơn đáng kể so với các nghiệm thức còn lại (p0,05). Tuy nhiên, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc (1,56 g và 20 mm) ở nghiệm thức TL cao hơn so với điều kiện bình thường (1,21 g và 18,23 mm) hoặc che 1 lớp lưới (1,22 g và 18,57 mm).
#Ốc bươu đồng #ánh sáng #tỷ lệ nở #sinh trưởng
Tổng số: 15   
  • 1
  • 2